Đảo Đài Loan Đảo Shinlu và Đài Loan trên sông Mê Kông
Sông Mê Kông, nguồn sống của bán đảo Đông Dương, trước khi đổ ra biển đã tạo thành một đồng bằng châu thổ tại miền nam biên giới của Việt Nam. Cần Thơ là một thành phố trực thuộc trung ương nằm ở trung tâm của đồng bằng châu thổ này. Từ bến tàu bên bờ sông, chỉ mất chưa đến mười phút đi phà, bạn sẽ đến một hòn đảo nhỏ có diện tích khoảng 32 km². Người dân địa phương gọi đây là “đảo Tân Lộc”, nhưng trong suốt hai mươi năm qua, nó còn có một biệt danh khác là “đảo Đài Loan”.
Mùa hè này, trên đảo có một khoá học đặc biệt. Hơn mười đứa trẻ cùng tập trung trong căn phòng học bằng tôn, theo học tiếng Trung với các sinh viên đại học đến từ Đài Loan. Bé Như, mới tròn 14 tuổi, trong nhóm trẻ này tỏ ra đặc biệt trầm lặng. Đáng lẽ bé đang theo học lớp 7 trung học cơ sở tại Việt Nam, nhưng khi mới hơn một tuổi bé đã được gửi lại đảo, do ông bà ngoại nuôi dưỡng.
Như Hà, phóng viên địa phương ở Việt Nam, đưa tin.
Trên đảo, những trường hợp như của cô bé nhỏ Chằn không phải là hiếm gặp. Ái Phương, một người yêu thích ca hát nhưng không thích nói chuyện, lại là một người may mắn hơn. Có hoàn cảnh tương tự như cô bé Chằn, nhưng nhờ được cậu ruột nhận nuôi, cậu bé này đã có thể nhập quốc tịch Việt Nam và học lên đến trung học phổ thông tại địa phương.
—
Trên đảo, có nhiều trường hợp như cô bé nhỏ Chằn không phải là hiếm gặp. Ái Phương, một người yêu thích ca hát nhưng không thích nói chuyện, lại là một người may mắn hơn. Có hoàn cảnh tương tự như cô bé Chằn, nhưng nhờ được cậu ruột nhận nuôi, cậu bé này đã có thể nhập quốc tịch Việt Nam và học lên đến trung học phổ thông tại địa phương.
Câu chuyện về tình trạng kết hôn xuyên quốc gia trên đảo Tân Lộc là một minh họa thu nhỏ của hiện tượng hôn nhân này và những thách thức kèm theo.
—
Là một phóng viên địa phương tại Việt Nam, tôi sẽ viết lại bản tin như sau:
**Câu chuyện kết hôn xuyên quốc gia trên đảo Tân Lộc: Một minh họa thu nhỏ và những thách thức**
Đảo Tân Lộc gần đây đã trở thành một điểm nóng về tình trạng hôn nhân xuyên quốc gia, phản ánh rõ nét các vấn đề và thách thức mà hiện tượng này đem lại. Việc kết hôn giữa người Việt và người nước ngoài không chỉ mang lại những cơ hội mới mà còn đặt ra không ít khó khăn.
Theo ghi nhận, các cặp đôi quốc tế thường đối mặt với rào cản ngôn ngữ, sự khác biệt văn hóa, cũng như các vấn đề pháp lý và tài chính phức tạp. Nhiều gia đình trên đảo phải tự mình tìm cách vượt qua những thách thức này, trong khi chính quyền địa phương vẫn chưa có biện pháp hỗ trợ hiệu quả.
Ngoài ra, còn có những câu chuyện về những người phụ nữ Việt Nam bị lừa dối và rơi vào hoàn cảnh khó khăn sau khi kết hôn với người nước ngoài. Điều này đòi hỏi sự can thiệp kịp thời và hiệu quả từ các cơ quan chức năng để bảo vệ quyền lợi của các công dân.
Trong bối cảnh này, việc nâng cao nhận thức cộng đồng, cùng với sự hỗ trợ từ các tổ chức xã hội, sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh từ hôn nhân xuyên quốc gia và giúp đảm bảo hạnh phúc lâu dài cho các cặp đôi.
Đảo Tân Lộc trong nửa thế kỷ qua đã trải qua nhiều biến đổi, được xem như là bức tranh thu nhỏ của toàn bộ khu vực Tây Nam Bộ của Việt Nam. Đoàn Văn Nhu, một nhà văn trên đảo, cũng từng là Phó Chủ tịch xã tại địa phương, cho biết rằng trước đây nơi này có gần 50 nhà máy sản xuất đường, nên đảo mới được đặt tên là “Đảo Ngọt Ngào”.
Tin từ Đảo Côn Đảo: Chính sách đổi mới bắt đầu từ năm 1986 của Việt Nam và sự suy tàn của ngành công nghiệp đường đã khiến nhiều cư dân trên đảo phải chuyển ra nước ngoài làm việc hoặc kết hôn, đặc biệt là ở Đài Loan. Theo ông Đoàn Văn Nu, đảo Côn Đảo đã từ “Đảo Đường” biến thành “Đảo Đài Loan”. Ông nói: “Nhiều phụ nữ đã xa xứ lấy chồng nước ngoài, đặc biệt là Đài Loan, vì sự suy tàn và phá sản của ngành đường khiến cho kinh tế không còn nguồn thu. Những người phụ nữ này phải xa nhà để giải quyết khó khăn và trở thành cứu tinh của gia đình.”
Theo chia sẻ của bà Phạm Thị Trúc Mai, một cư dân ở đảo Tân Lộc đồng thời là giáo viên dạy tiếng Hoa, “Lấy ví dụ từ cộng đồng của chúng tôi, cứ mỗi 3 hộ gia đình thì sẽ có 1 đến 2 hộ có con gái lấy chồng Đài Loan, một số gia đình có tất cả con gái đều lấy chồng Đài Loan. Theo tôi được biết, số lượng người đi lấy chồng Đài Loan lên đến hàng trăm người.” Tuy nhiên, một số con cái của họ lại bị đưa trở về Việt Nam vì hôn nhân của cha mẹ gặp trục trặc hoặc do vấn đề kinh tế.
Chính quyền thành phố Cần Thơ đã tiến hành một cuộc điều tra dân số vào năm 2018. Kết quả cho thấy có đến 1100 trẻ em không có hộ khẩu giống như Xiao Chan, bị gửi về đây nuôi dưỡng do những cuộc hôn nhân xuyên quốc gia. Trong đó, riêng trên đảo Tân Lộc đã có đến 30 em. Những đứa trẻ này, lớn lên ở Việt Nam và không biết nói tiếng Hoa, phần lớn đều mong muốn trở về Đài Loan để học tập hoặc làm việc sau khi trưởng thành. Tuy nhiên, rào cản ngôn ngữ đã trở thành một vấn đề lớn.
Ngày trước đại dịch, một nhóm nghiên cứu từ Đại học Chính trị Đài Loan đã thực hiện khảo sát thực địa tại địa phương và nhận thấy vấn đề này. Bắt đầu từ năm nay, nhóm này đã liên tục mở nhiều khóa học tiếng Hoa miễn phí trên đảo, nhằm tạo cơ hội kết nối lại với Đài Loan cho những thế hệ mới đang sống dưới sự chăm sóc của ông bà đa quốc tịch.
Là một phóng viên địa phương tại Việt Nam, tôi xin trình bày bản tin này bằng tiếng Việt:
Trước khi đại dịch bùng phát, nhóm nghiên cứu từ Đại học Chính trị Đài Loan đã tiến hành khảo sát thực địa tại địa phương và phát hiện ra vấn đề này. Bắt đầu từ năm nay, nhóm đã liên tục tổ chức nhiều khóa học tiếng Hoa miễn phí trên đảo, với mục tiêu tạo cơ hội kết nối lại với Đài Loan cho những thế hệ mới đang sống cùng ông bà đa quốc tịch.
Lớp học tiếng Hoa cũng đã thu hút sự chú ý của người địa phương. Một học sinh 17 tuổi tên Trần Khải Đăng, có hai người cô đều đã lấy chồng và sinh sống ở Đài Loan. Khi sắp tốt nghiệp trung học, Đăng mong muốn đi du học tại Đài Loan nên đã tham gia học tiếng Hoa. Phó giáo sư ngành Dân tộc học của Đại học Chính Trị, cô Cao Nhã Ninh, cho biết: “Một số học viên có cô hoặc dì đã lập gia đình ở Đài Loan và cuộc sống ổn định, vì vậy họ mong muốn các em nhỏ ở quê nhà cũng có thể tới Đài Loan học tập.”
Trên đảo Tân Lục, có những đứa trẻ khao khát đến Đài Loan học tập. Trong khi đó, trên một cồn cát khác nằm cách đó hơn 50 km trên sông Mekong, có một người mẹ đang nhớ nhung con cái của mình. Chị Ngân, 42 tuổi, mỗi ngày đều đi xe đạp đến nơi làm việc ở bờ đối diện của hòn đảo nhỏ. Năm 21 tuổi, qua sự giới thiệu của bạn bè, chị đã kết hôn và chuyển đến sống ở Cao Hùng, nơi có thời tiết nóng bức giống như Nam Việt. Tuy nhiên, sau khi sinh đôi được một cặp nam nữ, chị mắc phải chứng trầm cảm sau sinh, dẫn đến tình trạng tâm lý không ổn định. Vài năm sau, gia đình chồng đã gửi chị về Việt Nam chỉ với một chiếc vé máy bay.
Tôi là phóng viên địa phương tại Việt Nam, xin gửi đến quý độc giả một bản tin mới nhất. Cô dâu Việt Nam đang ngày càng cưới nước ngoài, mang lại niềm hạnh phúc cho một số người, nhưng đối với họ, có lẽ đó lại là sự lựa chọn không có nhiều sự lựa chọn khác.
Theo thống kê chính thức từ phía Việt Nam, hằng năm, ngoại trừ khoảng thời gian đại dịch COVID-19, có khoảng hai mươi nghìn người Việt Nam di cư ra nước ngoài thông qua hôn nhân quốc tế. Đa số những người này xuất thân từ khu vực phía Nam của Việt Nam. Riêng trong năm 2023, đã có 24.587 người Việt Nam di cư ngoại quốc qua con đường hôn nhân. Trong đó, có 5.435 người kết hôn với người Đài Loan và 4.923 người cưới người Hàn Quốc. Đặc biệt, tỷ lệ cô dâu Việt Nam kết hôn với người Hàn Quốc đang tiếp tục gia tăng qua từng năm.
Chúng ta có thể nhìn thấy sự thay đổi này qua các con số ngày càng tăng cao, tạo ra nhiều xu hướng mới trong xã hội, và đặt ra nhiều câu hỏi về tương lai và cuộc sống của những cô dâu Việt ở nơi đất khách quê người.
Dòng chảy dân số qua biên giới quốc gia không chỉ giới hạn trong hôn nhân, nhưng con đường này lại đầy rẫy những bất trắc. Số phận của những người phụ nữ này cùng tương lai của thế hệ tiếp theo giống như những bông bèo tây trôi dạt bên bờ sông, phiêu bạt và mịt mù.