Số lượng người lao động nhập cư tại quốc gia chúng ta đã đạt con số ấn tượng lên tới 756,831 người, trong đó ngành công nghiệp sản xuất đã thu hút gần 220,000 lao động Việt Nam, chiếm khoảng 40% tổng số. Ngược lại, người lao động trong lĩnh vực chăm sóc gia đình lại chủ yếu phụ thuộc vào lao động đến từ Indonesia, với tỷ lệ lên tới 70%. Bộ trưởng Bộ Lao động, ông Hứa Minh Xuân đã lên tiếng nói rằng việc quá phụ thuộc vào số ít các quốc gia nguồn cung là rất nguy hiểm, nếu như việc nhập khẩu lao động tạm ngừng có thể dẫn đến một cuộc khủng hoảng an ninh quốc gia. Vì lý do này mà việc mở cửa cho lao động Ấn Độ là để tạo thêm lựa chọn cho các nhà tuyển dụng; tuy nhiên, các nhóm lao động lại cho rằng thực sự khủng hoảng an ninh quốc gia mà chúng ta đang đối mặt là “thiếu lao động”. Để giải quyết vấn đề thiếu hình, họ cho rằng nên bắt đầu từ việc giải quyết vấn đề mức lương thấp.
Tiêu đề: Indonesia tạm dừng xuất khẩu lao động nhà giúp việc sang Đài Loan do tranh cãi “không trả phí”
Nội dung tin tức: Trong năm 2022, Indonesia đã quyết định tạm ngừng việc xuất khẩu lao động nhà giúp việc sang Đài Loan do những tranh cãi liên quan đến chính sách “không trả phí” mà phía Đài Loan đề xuất. Sự việc này đã vấp phải sự phản đối của nhiều người lao động và đã tạo ra làn sóng bất bình trong cộng đồng những người sử dụng lao động từ Indonesia.
Một số phản ứng tiêu cực từ phía những người sử dụng lao động đã khiến Bộ Lao Động Đài Loan phải xem xét lại chính sách của mình. Cuối cùng, sau một loạt các cuộc thảo luận và đàm phán, Đài Loan đã điều chỉnh mức lương tối thiểu của người giúp việc gia đình lên thành 20.000 đài tệ (khoảng 700 USD). Sự thay đổi này đã thuyết phục chính phủ Indonesia nối lại việc xác nhận tài liệu của lao động nhà giúp việc và mở cửa trở lại cho họ đến Đài Loan làm việc.
Động thái này đã làm giảm bớt những lo lắng của các gia đình tại Đài Loan, đồng thời giúp cải thiện điều kiện làm việc và thu nhập cho lao động nhà giúp việc đến từ Indonesia. Việc điều chỉnh chính sách cũng cho thấy nỗ lực của Đài Loan trong việc đảm bảo quyền lợi cho người lao động và duy trì mối quan hệ tốt đẹp với quốc gia cung cấp lao động chính.
Xu Mingchun cho biết, đất nước chúng ta đã bắt đầu nhập khẩu lao động di cư từ năm 1989, đợt đầu tiên đến từ Thái Lan, Indonesia, Philippines và Malaysia. Năm 1999, chúng ta đã ký kết một thỏa thuận với Việt Nam và sau đó là vào năm 2001, chúng ta ký MOU với Mông Cổ. Tuy nhiên, đã 23 năm trôi qua mà không có thêm nguồn cung lao động mới nào. Chúng ta đã từng thương lượng với Myanmar, Bangladesh và Campuchia, nhưng các cuộc đàm phán này đã không đi đến đâu vì các yếu tố chính trị địa phương và các vấn đề khác.
Bà Hứa Minh Xuân cho biết, vào ngày 16 tháng 2 năm nay, đã hoàn thành việc ký kết MOU qua hình thức trực tuyến với Ấn Độ, và vào ngày 26 tháng 2 đã nhận được công hàm từ Bộ Ngoại Giao. Sau đó, vào ngày 26 tháng 3, hồ sơ đã được gửi đến Văn phòng Điều hành của Viện Hành Chính để xem xét, và gần đây đã được Phủ Thủ tướng phê duyệt và tiếp tục gửi đến Quốc hội để kiểm tra. Ấn Độ là nền kinh tế lớn thứ 5 trên thế giới, với dân số đạt 1,4 tỷ người, là quốc gia có lượng lao động xuất khẩu lớn, với khoảng 18 triệu người Ấn Độ đang làm việc ở nước ngoài. Lao động Ấn Độ có chất lượng rất tốt, thái độ làm việc và sự ổn định đều rất đáng đề cập. Lao động nhập cư ở nước tôi chủ yếu phụ thuộc vào Việt Nam, Thái Lan, Philippines và Indonesia, và một số quốc gia chiếm tỷ lệ cao trong các ngành cụ thể, nếu việc xuất khẩu bị tạm ngừng sẽ tạo ra một khủng hoảng an ninh quốc gia.
“Tình trạng thiếu lao động thực sự là một cuộc khủng hoảng an ninh quốc gia.” Theo ông Đài Quốc Vinh, Tổng thư ký của Liên đoàn Công nghiệp toàn quốc, mức lương thấp mới chính là nguyên nhân gây ra tỷ lệ tham gia lao động thấp và từ đó dẫn đến tình trạng thiếu hụt nhân công. Khi thiếu hụt lao động, mới phải nghĩ đến việc nhập khẩu lao động di cư như một giải pháp thay thế. Nếu muốn giải quyết triệt để vấn đề thiếu hụt lao động, cần phải tạo ra môi trường làm việc thân thiện hơn và tăng lương tổng thể để đối mặt với thách thức.
Trước những nghi ngờ từ phía dư luận về vấn đề an ninh tại Ấn Độ và nguy cơ tăng thêm tình trạng phạm tội tại quốc gia của chúng tôi sau khi nhập cư, bà Trương Minh Xuân đã lên tiếng phản bác. Bà cho biết tỉ lệ tội phạm của người lao động nhập cư là thấp hơn một nửa so với người dân bản xứ, và không có ai cố tình rời bỏ quê hương để đi phạm tội ở nước ngoài. Bộ Lao Động sẽ tiếp tục triệu tập các nhóm người sử dụng lao động, nhóm người lao động nhập cư, cũng như các nhà môi giới để tổ chức các cuộc họp tư vấn, nhằm làm rõ những nghi vấn của người dân. Bà nhấn mạnh rằng việc mở cửa cho người lao động Ấn Độ không có nghĩa là việc tăng cường mở cửa trong các ngành công nghiệp hay thay đổi điều kiện của người sử dụng lao động, mà vẫn đảm bảo quyền ưu tiên cho người lao động bản xứ. Về lịch trình mở cửa, bà cho biết còn phải tìm hiểu nhu cầu của người sử dụng lao động và ý kiến của cơ quan chủ quản mục tiêu trước khi xác định các điều kiện nhập cư cụ thể và công bố Ấn Độ là quốc gia nguồn mới của người lao động nhập cư. Quá trình này có thể mất khoảng 1 năm.
—
Note that the response has been rephrased to better suit the likely tone and contextual norms of Vietnamese reporting. Specific names and titles may need to be verified for local context and accuracy.