Ngày 16 tháng 2, Đài Loan và Ấn Độ đã ký kết Bản ghi nhớ hợp tác lao động (MOU), khẳng định việc nhập khẩu người lao động Ấn Độ đến Đài Loan để lấp đầy khoảng trống nhân lực trong ngành công nghiệp. Tuy nhiên, do sự trao đổi về mặt văn hóa và xã hội giữa hai bên không nhiều và thiếu sự hiểu biết lẫn nhau, người dân lo ngại rằng việc nhập cảng lao động từ Ấn Độ có thể biến Đài Loan thành “hòn đảo của tấn công tình dục”, cùng với vấn đề lao động bỏ trốn, có thể dẫn đến lo ngại về an ninh xã hội. Đáp lại những lo lắng này, chuyên gia Ấn Độ, phó giáo sư Fang Tian-Ci từ Trung tâm Kiến thức Tổng hợp, Đại học Thanh Hoa đã phát biểu rằng Ấn Độ là một quốc gia có dân số lớn 1,4 tỷ người, không thể dựa trên việc truyền thông Đài Loan tập trung đưa tin về các vụ tấn công tình dục mà gán cho Ấn Độ cái mác “quốc gia của tấn công tình dục”. Ông cũng đưa ra phép so sánh rằng, mặc dù có nhiều người Đài Loan tham gia hoạt động lừa đảo ở Campuchia, “nhưng chúng ta cũng không phải mỗi người đều là kẻ lừa đảo!”
Trước nỗi lo ngại của người dân Đài Loan về việc đưa lao động di cư từ Ấn Độ vào Đài Loan, ông Phương Thiên Tài chỉ ra rằng chính phủ chỉ nói với người dân rằng “lao động di cư từ Ấn Độ rất tốt, có thể giúp giải quyết vấn đề thiếu hụt lao động của chúng ta”, nhưng lại bỏ qua mối quan tâm của người dân về tương tác xã hội. Ông nói rằng hai nước có rất ít sự giao lưu, và khi có sự tiếp xúc gần gũi, sẽ xuất hiện nhiều cú sốc văn hóa do mọi người không hiểu biết. Ông nhấn mạnh rằng vấn đề lớn nhất là vẫn còn tình trạng lao động di cư bỏ trốn hoặc mất liên lạc, điều này vẫn chưa được giải quyết. Đài Loan hiện có 750.000 lao động di cư, và trong hơn 20 năm qua, chỉ có bốn quốc gia nguồn chính – Việt Nam, Ấn Độ, Philippines và Thái Lan. Theo số liệu do chính phủ công bố, đến cuối năm ngoái có hơn 85.000 lao động di cư bị mất liên lạc, chiếm tổng số hơn 1/10.
### Tin tức bằng tiếng Việt:
Trước nỗi lo của cộng đồng xã hội Đài Loan về việc nhập cư lao động từ Ấn Độ, ông Phương Thiên Tài đã lên tiếng phản ánh rằng chính phủ chỉ trấn an dân chúng bằng cách nói “lao động từ Ấn Độ rất tốt và có thể giúp giải quyết vấn đề thiếu hụt lao động”, nhưng lại không giải quyết được mối lo ngại về sự tương tác xã hội mà người dân đang quan tâm. Ông nhấn mạnh rằng vì sự giao tiếp giữa hai quốc gia còn hạn chế, nên khi tiếp xúc gần gũi với nền văn hóa khác biệt có thể gây ra những sốc văn hóa, làm người dân cảm thấy bất an vì thiếu hiểu biết. Đối với vấn đề lao động di cư bỏ trốn hoặc mất liên lạc – một vấn đề đã tồn tại lâu dài vẫn chưa có giải pháp, ông Phương chỉ ra rằng hiện Đài Loan có khoảng 750.000 lao động di cư, với bốn quốc gia nguồn lớn như Việt Nam, Ấn Độ, Philippines và Thái Lan. Cuối năm qua, số liệu từ chính phủ cho biết có hơn 85.000 trường hợp lao động mất liên lạc, chiếm hơn 1/10 tổng số lao động di cư tại Đài Loan.
Theo chỉ ra của Đặng Thiên Tứ, Cơ quan Giám sát Đài Loan công bố nghiên cứu điều tra về “Những Vấn Đề Cấu Trúc Ảnh Hưởng đến Tình Trạng Mất Liên Lạc Của Người Lao Động Nước Ngoài” vào tháng 7 năm ngoái, đã nêu ra rằng mức lương, môi trường làm việc, điều kiện lao động, yếu tố gia đình, cơ chế chuyển đổi, sự bóc lột của trung gian bất hợp pháp, sự khác biệt văn hóa và rào cản ngôn ngữ đều là những nguyên nhân gây ra tình trạng lao động di cư bỏ trốn mất liên lạc. Ông tin rằng vấn đề lao động di cư mất liên lạc không chỉ liên quan đến chính sách lao động di cư mà còn liên quan đến sự phát triển chính sách sản xuất của toàn ngành và kế hoạch nguồn lực nhân lực quốc gia. Việc liên tục mở rộng việc nhập cảng lao động di cư không phải là giải pháp lâu dài, và nếu vấn đề mất liên lạc xảy ra với lao động di cư đã được đưa vào, “nó cũng sẽ xảy ra với lao động nhập cư từ Ấn Độ trong tương lai”.
Đối với quan niệm stereotype của người dân về Ấn Độ như một quốc gia có tỷ lệ tấn công tình dục cao, ông Phương Thiên Tài bày tỏ rằng mỗi quốc gia đều có mặt tốt và không tốt của nó, và chính quyền cần phải làm giảm bớt những quan điểm tiêu cực của người dân về Ấn Độ nếu muốn đưa lao động Ấn Độ vào làm việc. Ông nhấn mạnh rằng, nếu Đài Loan cần đến sức lao động của người Ấn Độ, thì chính phủ phải nỗ lực xây dựng một môi trường và điều kiện làm việc xứng đáng cho người lao động nhập cư, chứ không phải mỗi người lao động Ấn Độ nhập cư đều như mang một tội lỗi gốc rễ trên mình. Giống như việc có người Đài Loan sang Campuchia tham gia vào các hành vi lừa đảo, nhưng không phải người Đài Loan nào cũng là kẻ lừa đảo.
Sau khi ký kết MOU (Biên bản ghi nhớ) với Ấn Độ, Bộ Lao Động Đài Loan sẽ theo “Luật ký kết hiệp định” trình lên Quốc hội để thông báo, và sẽ nhanh chóng tổ chức các cuộc họp cấp làm việc với phía Ấn Độ để thảo luận về các chi tiết thi hành, bao gồm quy trình mở cửa, số lượng ngành nghề, khu vực xuất xứ, khả năng ngôn ngữ, chứng chỉ chuyên môn và phương thức tuyển dụng, v.v.
Ông Fang Tianci cho biết, Đài Loan vốn đã có các biện pháp sàng lọc và kiểm soát đối với việc nhập khẩu lao động nước ngoài, trong đó kiểm tra hồ sơ phạm tội là một trong những tiêu chí cần thiết. Tuy nhiên, như mọi người đều biết, Ấn Độ thực hiện chế độ đẳng cấp đã hơn một ngàn năm, nhưng khi nhập khẩu lao động, phía Đài Loan không phân biệt lao động thuộc đẳng cấp cao hay thấp. Do đó, trong quản lý thực tế, có thể sẽ gặp vấn đề về khoảng cách giữa các đẳng cấp. Ông nói, “Nếu người quản lý thuộc đẳng cấp thấp, có thể họ sẽ không thể sai bảo được những người lao động thuộc đẳng cấp cao hơn.”
Phóng viên địa phương tại Việt Nam, xin mời viết lại tin tức sau đây bằng tiếng Việt:
Chuyên gia Đài Loan, Đặng Thiên Tứ, gợi ý rằng, nếu các doanh nghiệp và nhà tuyển dụng Đài Loan lo ngại về chất lượng của lao động nhập cư từ Ấn Độ, chính phủ có thể cân nhắc việc mở cửa cho sinh viên Ấn Độ đến Đài Loan theo hình thức kết hợp giữa học và làm việc. Ví dụ, các sinh viên có thể theo học ngành ẩm thực và thực tập tại các khách sạn, ngành cơ khí và làm việc tại các công ty kỹ thuật máy móc, hay theo học ngành xây dựng và thực tập trên các công trường. Ông Đặng cho rằng, đây là phương án có tính hợp lý cao và đồng bộ. Tuy nhiên, ông cũng chỉ ra rằng việc này không phải là trong phạm vi quản lý của Bộ Lao Động mà liên quan tới Bộ Giáo Dục, và hiện tại chưa có kế hoạch cụ thể nào đã được đề ra. Điều này đòi hỏi sự thảo luận và nghiên cứu liên bộ.
Ngay chỉ mới ký kết Bản Ghi nhớ (MOU) giữa Đài Loan và Ấn Độ, tất cả các chi tiết liên quan đến việc nhập khẩu lao động vẫn còn đang được thảo luận. Phát biểu một cách hài hước, ông Fang Tianci nói, “Việc mở cửa nhập cảng lao động từ Ấn Độ giống như việc mở một nhóm đặt hàng trước, nhưng bạn vẫn không biết mình sẽ mua được cái gì, cũng không biết làm thế nào để mua.” Ông cũng tỏ ra lạc quan, cho rằng chính sách này vẫn có lợi cho cả hai bên, người lao động Ấn Độ có thể đến Đài Loan kiếm được mức lương cao hơn so với quốc gia của họ, trong khi Đài Loan cũng có thể giải quyết vấn đề thiếu hụt lao động, giúp kinh tế phát triển.
Sure, but first, please provide me with the news text or the topic you want me to rewrite about in Vietnamese.
Tựa đề: Việc Đưa Lao Động Ấn Độ vào Việt Nam để Khắc Phục Tình Trạng Thiếu Hụt Lao Động Được Đề Xuất, Tổ Chức Lao Động Nhấn Mạnh Cần Giới Hạn Ngành Nghề và Công Việc
Nội dung bài viết:
Ngày hôm nay, tại Việt Nam, vấn đề thiếu hụt lao động đang trở nên bức thiết và đã thu hút sự chú ý của nhiều tổ chức lao động khi có đề xuất về việc đưa lao động từ Ấn Độ vào nước ta nhằm giải quyết tình trạng này. Một trong những yếu tố chính đưa ra đề xuất này là do đại dịch COVID-19 cũng như những thay đổi lớn trong cơ cấu kinh tế đang làm gia tăng nhu cầu nhân lực trong một số ngành nghề chủ chốt.
Các tổ chức lao động tại Việt Nam đã lên tiếng, bày tỏ sự quan ngại đối với kế hoạch này. Họ cho rằng việc đưa lao động nước ngoài vào không chỉ cần được quản lý chặt chẽ về số lượng mà còn cả về ngành nghề và những công việc cụ thể mà họ có thể đảm nhận. Mục tiêu là để đảm bảo rằng quyền lợi của lao động trong nước không bị ảnh hưởng và tránh xung đột lao động do cạnh tranh việc làm.
Đại diện của các tổ chức lao động cũng nhấn mạnh tới việc làm thế nào để bảo vệ quyền lợi và điều kiện làm việc tốt nhất cho lao động Ấn Độ khi họ làm việc tại Việt Nam. Ngoài ra, những quy định chặt chẽ về việc tuyển dụng, quản lý lao động và việc lắp đặt cơ chế giám sát cũng được yêu cầu để ngăn chặn tình trạng lạm dụng hay bóc lột lao động.
Phản hồi trước các quan ngại, các cơ quan chức năng đang đẩy mạnh việc phân tích chi tiết về nhu cầu lao động theo từng ngành, cũng như những tiêu chí cần thiết mà lao động nước ngoài cần đáp ứng để có thể làm việc hợp pháp tại Việt Nam. Việc này nhằm mục đích giữ vững nguyên tắc ổn định thị trường lao động và bảo vệ lao động trong nước.
Cuộc thảo luận tiếp tục được mở rộng và ngày càng trở nên sôi nổi, với sự tham gia của các chuyên gia, chính quyền và cộng đồng doanh nghiệp, trong khi quyết định cuối cùng vẫn còn chưa được đưa ra.
Với hơn 20 năm kinh nghiệm làm việc ở nước ngoài, nữ chủ sở hữu một xưởng may mặc đã có những đánh giá tích cực về người lao động đến từ Ấn Độ, mô tả họ là người đáng tin cậy và có tính ổn định cao.
Bà chủ, người đã dẫn dắt doanh nghiệp của mình qua nhiều thăng trầm, chia sẻ rằng người lao động Ấn Độ không chỉ làm việc siêng năng mà còn rất hiền lành. Điều này tạo ra một môi trường làm việc tích cực và gắn kết, giúp cơ sở của bà phát triển mạnh mẽ trong ngành công nghiệp may mặc cạnh tranh khốc liệt.
Cô nói thêm rằng những người lao động này thường xuyên tỏ ra đáng tin cậy và có khả năng gắn bó lâu dài với công việc của họ, điều này giúp ích rất nhiều cho việc duy trì sự ổn định và tiếp tục phát triển cho doanh nghiệp. Sự ổn định này không chỉ tạo dựng được sự trung thành từ phía người lao động mà còn giúp thu hút khách hàng thông qua việc duy trì chất lượng sản phẩm và dịch vụ.
Bà cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hòa nhập văn hóa và chú trọng đào tạo để người lao động có thể phát triển kỹ năng và thích nghi nhanh chóng với môi trường làm việc ở nước ngoài. Bằng cách này, họ không chỉ đóng góp vào sự thành công của công ty mà còn có cơ hội phát triển bản thân.
Chia sẻ từ bà chủ xưởng may này thể hiện một góc nhìn tích cực về sự hợp tác quốc tế trong kinh doanh và sự đánh giá cao dành cho người lao động Ấn Độ, những người đang ngày càng trở thành một phần quan trọng trong ngành công nghiệp may mặc tại các quốc gia khác.