Theo Thượng tá Đào Trung Hiếu trong thực tiễn tố tụng hình sự hiện nay, “hiện tượng kỳ quái” khi thỉnh thoảng có vụ án mà bị hại (tức người được xác định bị thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra, là nạn nhân của tội phạm) lại đi kêu oan cho bị can, bị cáo.
Ông Hiếu cho rằng, điều này có thể xảy ra với các khả năng sau: Việc xác định người bị thiệt hại trong vụ án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng không chính xác.
Nghĩa là xác định không đúng mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, không đúng về đối tượng tác động của tội phạm, không đúng về chủ thể chịu thiệt hại;
Việc quy kết, buộc tội bị can, bị cáo của cơ quan có thẩm quyền trong tố tụng hình sự đã dựa trên các chứng cứ không đảm bảo 3 thuộc tính khách quan, liên quan, hợp pháp; buộc tội một cách quy chụp, thiếu khách quan, suy diễn…
Nạn nhân và người bị buộc tội có quan hệ với nhau, hoặc nạn nhân bị mua chuộc, khống chế.
Ngoài ra, trong một số vụ án lừa đảo đa cấp đã xét xử, nhiều bị hại đã kêu oan cho bị cáo. Chẳng hạn, vụ Phạm Thanh Hải – Chủ tịch IDT dạy làm giàu, tỉ phú cây macca; nhất là vụ Hsu Minh Jung (tức Saga, người Đài Loan, Trung Quốc) – cựu Tổng Giám đốc Công ty Khải Thái, nhiều người bị hại đồng loạt quay sang ủng hộ cho người phạm tội.
Vụ đa cấp Golden Time đang xử trong TPHCM cũng xảy ra tình huống này.
Nguyên nhân khá “đặc biệt” khiến nạn nhân bao che cho người phạm tội trong trường hợp này là vì nhiều người nhận thức rằng, nếu để chủ doanh nghiệp bị “đi tù”, đồng nghĩa với việc khoản tiền đã đóng vào công ty của họ sẽ mất trắng.
Để “ông chủ” bên ngoài xã hội thì còn có cơ hội mà đòi lại số tiền đã đầu tư. Hơn nữa, trong các mô hình tháp ảo của kinh doanh đa cấp biến tướng (bản chất là huy động vốn trái phép), chính nạn nhân không muốn tố cáo người phạm tội là vì tâm lý e ngại việc tố giác tội phạm sẽ liên đới đến mình. Vì bản thân cũng ít nhiều dính dáng đến đến hành vi phạm tội đó.
Trong nhiều vụ án, nhiều người vì đã trót đóng tiền vào công ty, để thu hồi lại khoản tiền đó và được hưởng hoa hồng, thù lao phát triển hệ thống… nên đã tiếp tục rủ rê, lôi kéo người khác tham gia vào mạng lưới đa cấp.
Bên cạnh đó, cũng có không ít người cũng đã biết rõ từ trước sự lừa dối của hoạt động kinh doanh đa cấp bất chính và tham gia với sự chủ động để thu được những lợi ích kinh tế, chứ không phải bị lừa gạt, dụ dỗ, cả tin.
Đó là những người tham gia nhiều mạng lưới đa cấp bất chính. Khi một mạng lưới đa cấp nào đó bị sụp đổ, họ tham gia mạng lưới đa cấp khác, thậm chí lấy kinh nghiệm từ việc hoạt động kinh doanh đa cấp bất chính trước đó, để thành lập ra các công ty, doanh nghiệp hoạt động kinh doanh đa cấp lừa đảo.
Với những đối tượng này, bản thân họ cũng ý thức được việc làm của mình là sai trái, giúp sức cho hoạt động lừa đảo của những người cầm đầu doanh nghiệp, nên không muốn tố cáo vì sợ liên luỵ đến bản thân.
Một số nạn nhân khi tham gia vào mạng lưới kinh doanh đa cấp bất chính vì lòng tham, tính hám lợi. Trong quá trình làm việc, chính họ cũng đã “vẽ” ra những lợi ích tưởng tượng để lôi kéo người khác.
Vì vậy khi bị doanh nghiệp lừa đảo mất tiền, họ có tâm lý xấu hổ và tự trách mình, chấp nhận thiệt hại, chứ không muốn làm to chuyện để bảo toàn danh dự, che giấu sai lầm của mình. Ra tòa, họ kêu oan cho bị cáo để phủ nhận thực tế bản thân đã bị lừa để vớt vát danh dự.
Chẳng thế, trong vụ án Phạm Thanh Hải lừa đảo chiếm đoạt hơn 570 tỉ đồng, nhiều người không tự nhận là bị hại. Họ còn giăng băng rôn đòi thả tự do cho bị cáo Phạm Thanh Hải.
Hành động đòi thả người lên đến cao trào khi TAND Hà Nội tuyên phạt Phạm Thanh Hải tù chung thân. Họ mặc cơn mưa, cái lạnh bất ngờ, đứng ngoài cổng toà đòi thả Hải.
Cáo buộc Hải phạm tội danh như cáo trạng truy tố, HĐXX xác định, bị cáo thành lập và làm Chủ tịch HĐQT Công ty IDT từ năm 2007.
Việc kinh doanh không hiệu quả, một năm sau, ông Hải lập website hoclamgiau.vn, tổ chức các hội thảo dạy làm giàu.
Trong các buổi học này, ông Hải tự giới thiệu là tiến sĩ, nhiều kinh nghiệm đầu tư, kinh doanh tại Nga, có tài đầu tư, kinh doanh. Công ty IDT đang triển khai các dự án có lãi suất cao, làm giàu từ cây công nghiệp “tỉ đô” macca, có siêu dự án…
Để tạo tin tưởng, thu hút nhiều người góp vốn, ông Hải đưa ra các hợp đồng góp vốn với lãi suất 40-50%/năm, cắt lãi ngay khi nộp tiền.
Bị cáo Hải mở rộng mạng lưới huy động vốn bằng cách chi 2-10% tiền “thưởng kết nối” dành cho những người môi giới hợp đồng mới; tổ chức cho các “nhà đầu tư” này đi liên hoan, du lịch…
Ông đưa ra các hợp đồng góp vốn đầu tư, hợp đồng ủy thác đầu tư… tự ý sử dụng con dấu IDT trong các hợp đồng này để họ tin tưởng công ty huy động vốn.
Chỉ một năm, tháng 10.2014 -10.2015, ông Hải huy động được hơn 2.725 tỉ đồng từ 2.574 nhà đầu tư.
Hải chỉ dùng 99 tỉ đồng (tức 3,6% tổng số tiền) để góp vào 9 dự án, song cũng không phải với danh nghĩa IDT như cam kết.
9 dự án này đều chưa có lợi nhuận, hoặc “hoạt động không hiệu quả, không có khả năng sinh lợi nhuận cao”. Số tiền còn lại, bị cáo cắt lãi ngay cho các cá nhân, chi trả cho các hợp đồng đến hạn, chi tiêu cá nhân.
Hiện, bị cáo Hải mất hoàn toàn khả năng thanh toán cho các “nhà đầu tư” này, tổng hơn 570 tỉ đồng, được tính là thiệt hại vụ án.